ADS 1

Showing posts with label Marketting. Show all posts
Showing posts with label Marketting. Show all posts

Sự kiện : Internet marketing "Khảo sát, tìm kiếm khách hàng tiềm năng"



Thân mời các bạn tham dự sự kiện :


Internetmarketing
"Khảo sát, tìm kiếm khách hàng tiềm năng,
kỹ năng sử dụng email marketing và công cụ google analystics”

Khách mời của chương trình:
Anh Cao Vi Long
Phụ trách Marketing Trực tuyến tại công ty cổ phần Vật Giá Việt Nam

Thời gian: 18h30 tối thứ 4 : 14/9/2011
Địa điểm: Phòng G401, G402 Đại học Thương mại
Bạn vui lòng đăng ký vào form dưới đây
http://eplusclub.net/showthread.php?362-su-kien-Internet-marketing-quot-Khao-sat-tim-kiem-khach-hang-tiem-nang-quot-
Chi tiết vui lòng liên hệ
Ms. Hằng ( 01656 078 447)
Mr Thịnh ( 0982670546)
Mr Dũng (01689913019)

Giới thiệu về One-to-one Web Marketing

Nằm trong chuỗi bài về One-to-one Web Marketing, theo tiêu chí trình bày kiến thức lý thuyết, chưa có kinh nghiệm thực tiễn

Như mọi người điều biết, mục tiêu đầu tiên của Marketer là tiếp cận khách hàng (các mục tiêu sau đó như chuyển tải thông tin sản phẩm, educate customer, v.v… em xin phép không đề cập trong phạm vi bài viết này). Các phòng Maketing ngày đêm đổ bao công sức tiền của nhằm tìm ra phương cách tiếp cận khách hàng hiệu quả với chi phí hợp lí nhất.

Nhìn nhận vấn đề một cách tổng quan, ta dễ thấy sự mâu thuẫn giữa số lượng chất lượng. Phát quảng cáo trên TV, radio, các phương tiện truyền thông khác sẽ tiếp cận được một số lượng khách hàng to lớn nhưng khả năng tiếp nhận và lưu giữ thông tin trong trí nhớ của khách hàng (chất lượng) sẽ kém. Ngược lại, gọi điện thoại hay gửi thư cho từng nhóm khách hàng cụ thể giúp tương tác trực tiếp với khách hàng, dẫn đến chất lượng tiếp cận tốt; nhưng sẽ gây ra bài toán chi phí nan giải khi áp dụng với số lượng khách hàng lớn.

Để giải quyết mâu thuẫn đó, khái niệm One-to-one Marketing ra đời. Khái niệm này được đề cập trong quyển “The One to One Future”, bởi Don Peppers và Martha Rogers từ năm 1993. Tại thời điểm mà World Wide Web còn chưa bùng nổ và phát triển mạnh mẽ, Don và Martha đã tính đến sự kết hợp của Công nghệ thông tin và Marketing để xây dựng hình thức tương tác trực tiếp với từng khách hàng, trên cơ sở số lượng khách hàng cực lớn. Kể từ đó đến nay, One-to-One Marketing được ứng dụng và phát triển rộng rãi và nhanh chóng ở Mỹ mà Amazon.com được xem là trong những nhà tiên phong và thành công điển hình nhất với phương pháp Marketing này.

One-to-One Marketing là gì?


Một cách cơ bản, OTOM là việc ứng dụng chuyển tải thông tin sản phẩm, dịch vụ, khuyến mãi, chăm sóc khách hàng tới từng cá nhân khách hàng theo đúng nhu cầu của từng người. (1)
Thử so sánh OTOM với các thể loại Marketing khác (2)

Mass Marketing: truyền thông theo kiểu one-to-all hay one-to-many, không có thong điệp và phương tiện được chuyên biệt hoá cho đối tượng cụ thể. Một thông điệp chuyển đến cho nhiều đối tượng khách hàng

Target Marketing:
truyền thông có mục tiêu, theo kiểu one-to-many hay one-to-few truyền tải thông điệp có định hướng bằng phương tiện cụ thể, nhắm vào một số đối tượng khách hàng trong phân khúc nhất định

One-to-one Marketing:
truyền thông theo kiểu one-to-few hay one-to-one, với những thông điệp được cá nhân hoá cho phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng mục tiêu, sử dụng phương tiện được thiết kế cho nhóm khách hàng đã được phân khúc rất chi tiết.

------------

Chú thích: (1) theo Don Peppers và Martha Rogers, “The One to One Future”, 1993
(2) phân loại types of Marketing theo tiêu chí của tác giả Allen, Cliff.; Kania, Deborah; Yaeckel, Beth, sách “One-to-one Web Marketing: Build a Relationship Marketing Strategy One Customer At a Time”, 2001

------------

Tại sao là One-to-one Marketing?


Thứ nhất, với nhu cầu trước mắt, OTO Marketing đáp ứng ngay lập tức nhu cầu của khách hàng đối với một sản phẩm cụ thể.

Ví dụ cô A cần mua một loại kem dưỡng dành cho da nhạy cảm. Nhưng cô bị dị ứng mùi hương mỹ phẩm nên kem dưỡng da cô cần nhất thiết phải không mùi. Sẽ mất thời gian và phiền phức biết bao khi mò mẫm thông tin ở chợ, shop mỹ phẩm, hay cả Internet, nhất là khi cô A là một Marketer bận bịu với hàng đống project.

Thử tưởng tượng nhãn hàng của bạn sẽ ghi điểm trong mắt khách hàng A như thế nào nếu cô bắt gặp thông tin về loạt sản phẩm dành cho da nhạy cảm, không mùi, sắp ra mắt tháng tới trong Email Newsletter được gửi hàng tuần từ công ty của bạn.

Rất rõ ràng, mọi khách hàng đều cần thông tin về sản phẩm để có cơ hội cân nhắc và chọn lựa được sản phẩm phù hợp nhất với mình. Tuy nhiên, Mass Marketing và thậm chí Target Marketing đều chưa thể đáp ứng được nhu cầu của từng khách hàng khi những thông tin cung cấp còn quá chung chung (general) và chưa được cá nhân hoá.

One-to-one Marketing đáp ứng đòi hỏi này. Hiệu quả của OTO Marketing không thể rõ ràng hơn khi khách hàng được chăm sóc một cách cẩn thận và chu đáo đúng theo nhu cầu từng cá nhân đến như thế.

Thứ hai, với nhu cầu chưa hình thành, OTO Marketing tiếp cận và khơi lên ham muốn mua sản phẩm của khách hàng.


Như đã từng nghe đề cập nhiều, công việc của một Marketer hiện đại không đơn giản là tìm ra nhu cầu khách hàng cần được đáp ứng nữa mà là phải “tạo ra nhu cầu” và thỏa mãn nó, từ đó sinh ra lợi nhuận.

Lúc này OTO Marketing thực hịên tốt chức năng của mình khi hệ thống gửi đến cho B những đề xuất đầu sách (Recommendations) khớp với đề tài “ruột” của anh là … yêu đương sướt mướt. B chỉ cần chọn lựa trong list sách mà hệ thống đã phân loại giúp, tìm một quyển ưng ý và click chuột, thực hiện các thao tác chuyển khoản để trả tiền và ngồi đợi sách được chuyển tới bằng đường bưu điện trong vòng 3 ngày.

Thoả mãn không? Đây chính là cách thức thực hiện One-to-one Marketing của trang web Amazon.com, trang web mua bán sách hàng đầu US hiện nay.

Tới đây, xin tóm lại điểm cốt yếu trong One-to-one Marketing, đó là sự kết hợp giữa Công nghệTiếp thị (Technology and Marketing) để phục vụ nhu cầu từng cá nhân khách hàng một cách hiệu quả nhất.

Nguồn :  http://chudoanhnghiep.com

Google kiếm tiền từ Android như thế nào?

Có bao giờ bạn từng thắc mắc: Phải chăng Google đang "làm từ thiện" khi ném ra hàng trăm triệu USD để phát triển Android rồi lại "phân phát" HĐH này hoàn toàn miễn phí? Sự thật đằng sau những mánh khóe "làm tiền" của Google.

Nếu bạn có đôi chút quan tâm đến smartphone trong vòng 1 vài năm trở lại đây, có lẽ bạn sẽ khó lòng không nghe đến cái tên Android. HĐH dành cho các thiết bị cầm tay như smartphone, tablet của Google ra đời cách đây hơn 2 năm, và đi lên từ con số 0 để trở thành hệ điều hành phổ biến nhất trên điện thoại di động. Một trong những lý do khiến Android trở nên phổ biến là việc HĐH này được Google phát hành dưới dạng mã nguồn mở hoàn toàn miễn phí. Điều này có nghĩa là tất cả các hãng sản xuất như HTC, Samsung, Motorola, LG... đều có thể sản xuất smartphone Android mà không mất 1 đồng chi phí bản quyền nào trả cho Google.

Android có thực sự miễn phí như Google quảng cáo?
Trước khi Android ra mắt, người ta từng rất hào hứng với ý tưởng gã khổng lồ tìm kiếm tham gia vào thị trường điện thoại di động. Sau khi có thông tin Google mua lại 1 HĐH dành cho các thiết bị cầm tay, nhiều người đã mơ đến 1 chiếc Google Phone hoặc việc Google sẽ tham gia vào thị trường dịch vụ viễn thông. Và với truyền thống cung cấp "đồ chùa" cho cộng đồng mạng của Google, người ta mong chờ những chiếc smartphone giá rẻ bèo hoặc 1 nhà mạng cho phép gọi điện nhắn tin thoải mái mà không phải trả 1 xu nào. 

Đến hôm nay thì chúng ta biết rằng những mộng tưởng ấy đã không trở thành sự thực. Google không sản xuất phần cứng cũng như không cung cấp dịch vụ viễn thông theo kiểu truyền thống trên mạng 3G hoặc CDMA. Nhưng những gì mà Google đem đến cho người sử dụng có lẽ cũng tuyệt vời không kém: 1 HĐH di động tối tân và "hoàn toàn miễn phí".

Sự dễ dãi của Android và việc HĐH này hoàn toàn miễn phí đã giúp các hãng sản xuất dễ dàng tiếp cận với Android hơn, và kết quả là một binh đoàn các smartphone có cộp dấu Android xâm chiếm thị trường chỉ trong nháy mắt, đem đến cho người dùng cuối hàng trăm sự lựa chọn. Người sử dụng hài lòng vì có được chiếc điện thoại như ý, hãng sản xuất phần cứng thì sung sướng vì bán được hàng. 

Nhưng còn Google? Liệu Google có cảm thấy sung sướng trước sự thành công của Android nếu hãng này không kiếm được 1 xu từ nó? Chắc chắn là không. Google không phải là 1 tổ chức từ thiện, Android, không nghi ngờ gì, là 1 công cụ "làm tiền" của Google. Thế nhưng câu hỏi đặt ra là, liệu Google kiếm tiền từ Android như thế nào, nếu với mỗi chiếc smartphone Android xuất xưởng Google không thu được 1 đồng nào từ chính HĐH mà họ phải bỏ ra hàng trăm triệu, thậm chí có thể là hàng tỉ, USD để phát triển?

Nếu bạn từng tự hỏi mình câu đó, bài viết này sẽ cho bạn đáp án.

1. Bản chất của Google

Để trả lời được câu hỏi ở trên, chúng ta phải hiểu về bản chất của Google. Google kinh doanh thứ gì? Có người sẽ nói Google là 1 công ty công cụ tìm kiếm(Google Search), người lại bảo Google là công ty cung cấp dịch vụ email (Gmail), người thì cho rằng Google chuyên cung cấp dịch vụ giải trí (Youtube)... Google có chân rết ở nhiều lĩnh vực đến mức đôi khi người ta quên mất chức năng chính của Google: Một công ty quảng cáo.

Nếu bạn chưa biết, thì chính những mẩu quảng cáo nho nhỏ gắn trong email, kết quả tìm kiếm mà bạn vẫn đang xem hằng ngày, là nguồn sống chính của Google. Chính những dòng chữ trông có vẻ đơn giản và vô hại ấy đã nuôi sống và gây dựng cả 1 đế chế Google hùng mạnh như ngày hôm nay.

Những mẩu quảng cáo nhỏ bé như thế này đã xây dựng nên gã khổng lồ Google.
Google được các công ty khác trả tiền để chèn những mẩu quảng cáo trên vào các kết quả tìm kiếm hoặc trang email của người sử dụng dịch vụ của Google. Vấn đề là, Google đã tìm được cách chèn những quảng cáo ấy khéo léo đến mức người sử dụng đôi khi không hề nhận ra sự hiện diện của chúng.

2. Quảng cáo trúng đích

Điều làm nên thành công của Google là quảng cáo do Google làm rất trúng vào nhu cầu của người xem. Một ví dụ một quảng cáo trên ti vi chẳng hạn như về máy lọc nước Kangaroo. Rõ ràng trong vài chục triệu người Việt Nam xem đoạn quảng cáo đêm hôm đó, chỉ có 1 phần rất nhỏ có nhu cầu mua máy lọc nước. 

Và một khi không có nhu cầu thì quảng cáo đó dù hay tới đâu cũng chỉ như "nước đổ đầu vịt", không hiệu quả. Trong khi đó đơn cử như khi tôi tìm kiếm trên Google bằng từ khóa "học tiếng anh", lập tức 1 loạt các quảng cáo được Google khéo léo chèn vào kết quả tìm kiếm về các trung tâm Anh ngữ ở gần nơi tôi sinh sống. Chắc chắn xác suất tôi cảm thấy hứng thú với mẩu quảng cáo đó sẽ cao hơn nhiều. Và như thế tức là tôi đã "cắn câu" của Google.

Như vậy, quảng cáo càng trúng đối tượng sẽ càng đem lại hiệu quả cao. Thử tưởng tượng nếu Google có thể biết được bạn đang quan tâm đến thứ gì, ở độ tuổi bao nhiêu, đang ở địa điểm nào, mức thu nhập ra sao... những quảng cáo của Google sẽ "đáng sợ" đến mức nào. 

Vấn đề là ở chỗ, làm sao để Google có thể thu thập các thông tin ấy của người sử dụng? 

3. Cách làm khôn khéo

Có thể Google đã dính rất nhiều vụ kiện cáo liên quan đến việc thu thập thông tin cá nhân của người sử dụng và vi phạm quyền riêng tư của họ. Nhưng thực tế cho thấy, mỗi lần vấp ngã là 1 lần Google "khôn" ra, và cách thu thập các thông tin kể trên của hãng này càng ngày càng kín đáo, tinh vi.

Google theo dõi thói quen duyệt web của người sử dụng thông qua 1 công cụ miễn phí là Google Analytics (GA). GA là 1 công cụ được Google cung cấp "miễn phí" cho các quản trị website để theo dõi các thông số về lưu lượng hoạt động trên website của họ, đem lại những thông tin rất quí giá cho người quản trị. 

Đồng thời GA cũng đóng vai trò là 1 "gián điệp 2 mang", đem về cho Google những thông tin về thói quen duyệt web của người dùng internet. Với 1 cơ sở dữ liệu đủ lớn từ GA, Google có thể vẽ ra cả 1 "bản đồ internet" về thói quen tiêu dùng và sự quan tâm của người dùng ở từng độ tuổi, vùng miền để làm cho các quảng cáo được chính xác hơn.

Tương tự như vậy, Google Chrome cũng là 1 sản phẩm theo kiểu "mồi ngon" của Google. Rất nhanh, rất tiện dụng nhưng cũng là 1 công cụ để Google giám sát thói quen duyệt web của người sử dụng. Chưa hết, nếu bạn đang sử dụng Google DNS (8.8.8.8) để vào Facebook ở Việt Nam, bạn cũng đang "cúng" không cho Google những thông tin về việc bạn đang quan tâm đến sản phẩm gì, đang duyệt những website như thế nào. Từ đó Google sẽ biết để dễ bề "mồi chài" bạn bằng các quảng cáo của mình hơn.

4. Bước vào kỷ nguyên "hậu-PC"

Nhưng tất cả những mánh khóe kể trên đều là ở trong thời kỳ mà các PC, laptop đang thống trị thị trường. Giờ đây, khi loài người đang bước vào kỷ nguyên hậu-PC, những phương pháp trên tỏ ra lỗi thời hoặc thiếu hiệu quả. Với sự ra đời của smartphone, rất nhiều người đã chuyển rất nhiều việc tìm kiếm sang các thiết bị cầm tay vốn có ưu điểm là luôn "dính" vào người mọi lúc, mọi nơi. Chẳng hạn như khi tìm kiếm 1 cây xăng khi đang đi trên đường, hoặc 1 mốc ATM gần nơi mình đang đứng, chỉ có duy nhất smartphone mới có thể đáp ứng được nhu cầu này của người dùng trong khi cả các laptop nhỏ gọn nhất cũng không thể giở ra giữa đường được.

Quảng cáo trong 1 ứng dụng miễn phí của Android.  Quảng cáo cũng là nguồn thu chính của các ứng dụng kiểu này.
Và 1 chiếc smartphone cũng nói cho người ta biết nhiều về chủ nhân của nó hơn là 1 chiếc máy tính để bàn. Model của chiếc smartphone phần nào hé lộ độ tuổi và tính cách, giá thành "tố cáo" độ dày hầu bao, và quan trọng nhất, là smartphone luôn đi kèm với người nên vị trí của smartphone là vị trí của người sử dụng. Thử tưởng tượng bạn tìm thông tin về 1 chỗ bán laptop, nếu có 1 quảng cáo về 1 cửa hàng đang hạ giá 20% và chỉ cách chỗ bạn đang đứng 200m, bạn có muốn ghé qua xem thử?

5. Tóm lại, Google kiếm tiền từ Android như thế nào?

Có lẽ nói đến đây bạn đã phần nào mường tượng ra mục đích của Google khi tạo ra Android. Nói ngắn gọn, Google là 1 công ty quảng cáo, để quảng cáo trúng đích, Google phải có thông tin về đối tượng xem những quảng cáo đó. Họ thu thập các thông tin này bằng nhiều cách, và Android đơn giản là 1 công cụ hỗ trợ Google điều tra người dùng.

Bản thân các thiết bị chạy Android cũng là những quầy trưng bày quảng cáo của Google. Bạn có nhớ khi chơi Angry Bird thi thoảng vẫn thấy các mẩu quảng cáo nho nhỏ hiện lên? Các ứng dụng miễn phí trên Android cũng đi kèm quảng cáo. Phần tiền thu được từ các quảng cáo này được Google và người phát triển ứng dụng đó cưa đôi. Nói 1 cách khác, khi cầm theo 1 chiếc smartphone Android trong túi, bạn đang mang theo 1 tên gián điệp luôn tìm cách "nhồi nhét" vào đầu bạn những đoạn quảng cáo mà nó nghĩ rằng bạn sẽ cảm thấy hứng thú. 

Quảng cáo trong Angry Birds.
Bên cạnh quảng cáo, Google còn một vài cách nữa để làm tiền từ Android. Mà đầu tiên là từ việc bán các ứng dụng như Gmail, Google Search cho các nhà sản xuất thiết bị. Cụ thể là những hãng sản xuất như HTC, Motorola... muốn đưa các ứng dụng của Google như Gmail, Google Search vào sản phẩm của mình thì phải trả 1 khoản phí cho Google. 

Tất nhiên khoản phí cho các Google Apps này trên mỗi thiết bị là không đáng kể, nhưng nếu nhân với 130 triệu thiết bị Android từng xuất xưởng (Tính đến 04-2011), đó vẫn sẽ là 1 con số khổng lồ. Triết lý của Google vẫn là: HĐH thì miễn phí, nhưng ứng dụng phải trả tiền và bên phải móc túi là hãng sản xuất. Tất nhiên các hãng có thể chọn không bổ sung các ứng dụng này vào sản phẩm của mình, tuy nhiên với sự tiện dụng của các Google Apps, 1 smartphone Android sẽ mất đi rất nhiều sự hấp dẫn nếu thiếu chúng.

Bên cạnh đó, Android Market cũng là 1 nguồn thu của Google. Cũng giống như Apple, Google thu 1 khoản phí trên mỗi ứng dụng bán được. Mặc dù với tình hình kinh doanh bết bát của Android Market, có lẽ số tiền này cũng không thực sự lớn. Và kể cả trong trường hợp ứng dụng không bán được, Google vẫn thu được tiền vì 1 lập trình viên muốn đăng tải ứng dụng trên Android Market thì phải trả 1 khoản phí gia nhập, và khoản phí này tất nhiên là sẽ chảy vào túi Google.

6. Kiếm được bao nhiêu tiền?

Năm ngoái Google tuyên bố mình tạo ra khoảng 1 tỉ USD thu nhập từ Android. 1 con số khá khiêm tốn nếu so với 23,73 tỉ USD mà Apple kiếm được từ iPhone. Tuy nhiên nếu bạn suy xét cả đến việc Google không bán phần cứng của Android, con số trên hoàn toàn không hề nhỏ.

Cũng trong năm 2010, người ta ước tính, Google kiếm được khoảng 5.9 USD/năm ở mảng quảng cáo trên mỗi thiết bị chạy Android xuất xưởng, và con số này sẽ tiếp tục tăng đến mức 10 USD trong năm 2012. Với 130 triệu thiết bị chạy Android hiện có mặt trên thị trường, chắc chắn Google đang kiếm đều đặn 760 triệu USD mỗi năm, và tỉ suất lợi nhuận trong số thu nhập trên chắc chắn rất cao. 

Thử so sánh với con số 3 triệu máy Windows Phone 7 ra lò và 15$ mà Microsoft kiếm được từ mỗi máy chạy Windows Phone 7 chúng ta sẽ thấy rõ ràng Google kiếm tiền từ Android cũng nhanh chẳng kém gì những hãng bán bản quyền HĐH, thậm chí có phần còn nhanh hơn vì lượng người dùng Android vẫn đang "trương nở" với tốc độ chóng mặt: 300.000 thiết bị kích hoạt mới mỗi ngày.

Kết

Android cũng giống như tất cả các sản phẩm khác của Google, không hề miễn phí như người ta vẫn tưởng. Mặc dù không trực tiếp móc túi khách hàng, nhưng Google luôn tìm cách che mắt người sử dụng 1 cách khéo léo để họ không nhận ra rằng mình đang bị Google "chăn dắt". Nhưng nói cho cùng, không có gì miễn phí hoàn toàn, và Android cũng không phải ngoại lệ. Và sự thực là với những gì mà Google đã làm với Android, rõ ràng họ xứng đáng được hưởng phần của mình. Câu hỏi chỉ còn là: Liệu bạn có thể "chung sống" với tên gián điệp Android hay không mà thôi.

Android hiện tại vẫn chưa phải là cỗ máy in tiền của Google, và có lẽ hãng này cũng không định hướng Android trở thành công cụ kiếm tiền chính của mình. Android trong thời điểm này, và có thể là cả tương lai nữa, sẽ vẫn chỉ là 1 công cụ giúp Google bước vào kỷ nguyên hậu-PC và để gã khổng lồ hiểu tường tận hơn về những khách hàng mà hãng này đang phải nhắm đến hoặc phục vụ.

10 lời khuyên quan trọng cho người làm Email Marketing

Đó là những nguyên tắc quan trọng nhất cho bất cứ ai quản lý hoạt động email marketing.
1. Chỉ gửi email cho những người đã đề nghị để nhận email từ bạn.
2. Nội dung của email phải liên quan đến những vấn đề người nhận quan tâm.
3. Tạo một lịch trình gửi mail hoàn chỉnh và hãy cố gắng tuân theo đúng lịch trình đó.
4. Nếu bạn gửi email cho các doanh nghiệp, hãy gửi vào các ngày từ thứ Ba đến thứ Năm hàng tuần. Thời gian gửi tốt nhất là sau 9:30 sáng hoặc 1:30 chiều, tránh gửi email sau 4:00 chiều hoặc vào cuối tuần.
5. Nếu bạn gửi email cho người tiêu dùng, hãy gửi từ 5:00 tối đến 8:00 tối, và gửi vào từ thứ Ba đến thứ Năm hoặc từ tối thứ Sáu đến trưa ngày Chủ nhật.
6. Để nâng chất lượng gửi email, hãy luôn nhớ thêm vào câu: “Để chắc chắn nhận được email của chúng tôi, hãy thêm địa chỉ email của chúng tôi info@company.com vào Address Book của bạn”.
7. Đặt tên người gửi là tên công ty hoặc tên của một thành viên có uy tín trong công ty, hãy giữ nguyên tên người gửi này trong những lần kế tiếp. Điều quan trọng nhất để người nhận mở email là tên người gửi có quen thuộc với họ hay không?
8. Chắc chắn rằng email của bạn bao gồm cả 2 bản: HTML và Text. Chương trình đọc email của người nhận sẽ tự động nhận biết và chọn định dạng email người nhận có thể đọc.
9. Đừng sử dụng nguyên chữ viết hoa hay quá nhiều dấu chấm than trong câu tiêu đề hay nội dung email, điều này sẽ kích hoạt bộ lọc thư rác của chương trình đọc email.
10. Hãy bổ sung danh sách địa chỉ của bạn bất cứ khi nào bạn có cơ hội. Hãy luôn chuẩn bị cho mình một cuốn sổ nhỏ, hay một mảnh giấy để có thể lưu lại địa chỉ email của những người bạn gặp, đặc biệt là những người quan tâm đến dịch vụ bạn cung cấp.
( trích : tài liệu tất tần tật về email marketing )

Quảng cáo di động sắp bùng nổ

quang-cao.jpg
Quảng cáo di động sắp bùng nổ
ICTnews - Năm 2010, chưa đến 2 tỷ USD được chi cho quảng cáo di động. Nhưng theo nghiên cứu mới nhất của hãng ABI Research, đến năm 2012 con số đó sẽ là hơn 7 tỷ USD, và đến năm 2016, dự đoán 24 tỷ USD sẽ được các công ty dành cho quảng cáo di động.
“Dự báo của ABI Research đã chỉ rõ có một sự bùng nổ mạnh mẽ trong ngành quảng cáo di động”, Giám đốc Neil Strother của ABI Research nói. “Ngày nay, chi phí cho quảng cáo di động chỉ chiếm 2-3% ngân sách quảng cáo của các công ty, nhưng mức chi phí này sẽ bùng nổ trong vài năm tới”.
Cách đây không lâu, các nhà quảng cáo còn nói rằng di động rất hấp dẫn, nhưng chỉ có rất ít người dùng ngó vào các quảng cáo đó, đặc biệt là quảng cáo hiển thị, quảng cáo tương tác và các loại quảng cáo đa phương tiện khác. Tuy nhiên, hiện nay mọi thứ đã thay đổi. Thứ nhất đó là sự nở rộ của smartphone và các thiết bị thông minh khác như máy tính bảng. Thứ hai là sự sinh sôi nảy nở của các ứng dụng di động. Những ứng dụng này rất đa dạng, đó có thể là game, hoặc là những dịch vụ được truy cập qua một trình duyệt web di động. Những trò chơi, dịch vụ này lại được các công ty tài trợ thông qua hình thức quảng cáo.
Hiện nay, kiểu quảng cáo “công nghệ thấp” như SMS vẫn khá hữu dụng, song sắp tới những quảng cáo đa phương tiện, quảng cáo tương tác sẽ là động lực chính thúc đẩy thị trường này.
H.T
Theo Cellular-news
Bài viết đăng trên báo Bưu điện Việt Nam số 76

Thống kê về sự chú ý đến các vị trí trên kết quả tìm kiếm google

Nếu bạn là một doanh nghiệp muốn mua dịch vụ quảng cáo của Google, hãy chắc chắn rằng bạn bỏ tiền ra để mua vị trí hiển thị... thứ 2!
Với việc Google thay đổi cách thức dịch vụ quảng cáo Adwords trên các trang web, nhiều công ty sử dụng dịch vụ này của gã khổng lồ công nghệ đang cố bỏ ra những khoản tiền không hề nhỏ vào Google để được “xếp hạng” cao hơn những đối thủ cạnh tranh của họ. Từ đó con đường đến với khách hàng của những công ty này cũng được rút ngắn lại phần nào.
Tuy nhiên một nghiên cứu gần đây của tổ chức nghiên cứu thị trường trực tuyến Miratech đã chỉ ra rằng: những công ty mua dịch vụ quảng cáo hoàn toàn không nên bỏ ra những khoản tiền lớn chỉ để “mua” thứ hạng đầu tiên trong bản danh sách của Google. Lý do được đưa ra khá bất ngờ: Những đường dẫn hay những công ty có kết quả hiển thị ở vị trí thứ hai trong danh sách kết quả tìm kiếm của gã khổng lồ công nghệ lại được chú ý nhiều hơn kết quả ở phía trên nó, nếu xét theo thời gian một người nhìn vào danh sách những đường dẫn quảng cáo trên trang chủ Google.
Kết quả của cuộc điều tra này đã được rút ra sau khi tiến hành không chỉ một, mà là đến hai bài kiểm tra độc lập để chắc chắn mức độ khách quan của câu trả lời: người sử dụng luôn chú ý nhiều hơn đến mẩu quảng cáo thứ 2 khi hai mẩu quảng cáo cùng được hiển thị đầu tiên trong trang kết quả tìm kiếm. Cụ thể hơn, trong khi mỗi người chỉ bỏ ra trung bình khoảng 0,8 giây để đọc lướt qua thông tin ở mẩu Adwords đầu tiên, thì ở đoạn quảng cáo thứ 2, khoảng thời gian ấy là 1 giây.
Không chỉ dừng lại ở đó, cuộc điều tra tiếp tục khi Miratech cho hiển thị cùng luc 3 đoạn quảng cáo chữ trên Google. Rốt cuộc kết quả cũng chẳng khác là bao, khi thời gian trung binh một người chú ý vào đoạn quảng cáo thứ 1 và 3 lần lượt là 0,93 và 0,9 giây, còn đoạn quảng cáo thứ 2 là 1,3 giây.
Kết quả cuộc điều tra của Miratech: trong bức ảnh, những vùng
màu càng nóng là những vùng được mắt để ý tới.
Kết quả này cho thấy những người sử dụng Google đã quen với cách họ đọc những kết quả tìm kiếm của Google. Những cuộc kiểm tra khác cũng cho thấy kết quả tìm kiếm (không phải quảng cáo “sponsored links”) đầu tiên được chú ý nhiều gấp 1,6 lần kết quả tìm kiếm thứ 2.
Cuộc thử nghiệm này được tiến hành với sự trợ giúp của công nghệ theo dõi chuyển động mắt tiên tiến. Ở cuộc kiểm tra đầu tiên, 24 người đã tham gia, trong đó có 9 người Pháp, 7 người Nhật và 8 người Mỹ. Còn ở cuộc kiểm tra thứ 2 chỉ có 20 người (10 người Pháp và 10 người Mỹ) tham gia.
Tham khảo TheNextWeb

Thuê quảng cáo status yahoo

Chỉ cần đặt status theo yêu cầu của công ty này, bạn sẽ được trả 200 ngàn đồng 1 tháng.
Mới đây, một công ty tin học có trụ sở tại Hà Nội đã cho đăng tải thông báo:"Mua bản quyền nick Yahoo! để đặt quảng cáo trên status". Theo đoạn giới thiệu này, bạn chỉ cần đặt status theo yêu cầu của công ty ít nhất 2 tiếng/ ngày trong một tháng thì sẽ nhận được 10USD (khoảng 200 ngàn)/ tháng. Nội dung của quảng cáo xoay quanh các sản phẩm, dịch vụ tin học mà công ty này cung cấp.
 
Ngay lập tức, thông tin gây được sự chú ý cao từ phía người dùng internet. Một phần bởi hình thức quảng cáo khá mới lạ, một phần bởi mức phí thanh toán khá hấp dẫn cho ứng viên.
 
Đa phần, các ý kiến đều cho rằng hình thức hợp tác này khá đơn giản, chỉ cần "bật nick là đã có tiền". Bản thân công ty tin học trên cũng có thời gian kinh doanh lâu và ít nhiều tạo được uy tín với khách hàng trong nước, nên càng khiến nhiều người tin hơn vào nội dung thông báo. Tại phần tin tức trên trang chủ công ty, chúng tôi cũng tìm thấy đoạn thông báo được viết chi tiết kèm email và số điện thoại liên lạc cụ thể.
 
 
Thử liên lạc với số điện thoại này, chúng tôi được anh Sơn (nhân viên của công ty) cho biết đoạn thông báo trên mạng hoàn toàn nghiêm túc. Công ty đã lên kế hoạch để quảng cáo qua kênh này và sẵn sàng ký hợp động với người tham gia. Nhân viên này cũng cho biết thêm, số lượng người gọi điện hỏi rất nhiều nên buộc phải dùng  hình thức xét tuyển để chọn ra những người phù hợp nhất. Theo anh này, việc lựa chọn phụ thuộc vào số lượng bạn bè trong nick Yahoo!, số lượng bạn bè thường xuyên online. Ứng viên cũng phải đảm bảo được nick Yahoo! của mình mở ít nhất 2 tiếng/ ngày trong giờ hành chính...
 
Chưa rõ, hiệu quả của chiến dịch quảng cáo này tới đâu, nhưng xét về mặt ý tưởng thì đây quả là một cách làm khá mới mẻ ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng, điều quan trọng nhất là công ty này phải lựa chọn được các nick chat thật sự hiệu quả trong việc đặt status, loại được các trường hợp tạo nhiều nick (với danh sách bạn bè giống nhau), tính toán sao cho độ phủ thông tin đến khách hàng là lớn nhất.
 
(Tổng hợp)

Chỉ 1% DN Việt Nam marketing qua mạng xã hội


Trong khi tới 54% các công ty quốc tế sử dụng các trang mạng xã hội như một công cụ marketing tuyệt vời thì tại Việt Nam, số doanh nghiệp này chỉ chiếm 1%, trong đó, chỉ có 0,4% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng Facebook và 0,07% dùng Youtube.
5.000 doanh nghiệp Việt dùng mạng xã hội

Kết quả nghiên cứu trên vừa được công bố tại hội thảo về Mạng xã hội cho các giám đốc Marketing do Trung tâm Pháp - Việt Đào tạo về Quản lý (CFVG) tổ chức tại Hà Nội sáng nay, 10/6/2011.

Công ty truyền thông Vinalink, đơn vị chủ trì cuộc khảo sát về ứng dụng mạng xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam cho hay, hiện có tới 53% người dùng Internet ở Việt Nam, tương đương với 15 triệu người, đang sử dụng ít nhất một mạng xã hội.

Cuộc nghiên cứu này cho thấy, số doanh nghiệp Việt sử dụng mạng xã hội vào marketing còn rất khiêm tốn. Cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký thành lập đến nay và theo số liệu từ Tổng cục Thuế, số doanh nghiệp đang hoạt động có khoảng trên 350.000 doanh nghiệp.
 

Ông Hà Tuấn, Tổng Giám đốc Vinalink cho biết, 0,4% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng Facebook chỉ tương khoảng 2.000 doanh nghiệp. 0,07% doanh nghiệp dùng Youtube và khoảng 0,2% còn lại cho các mạng xã hội khác. Nếu tính tổng % sử dụng các mạng xã hội bao gồm cả diễn đàn, Blog thì con số doanh nghiệp ứng dụng kênh truyền thông này mới chỉ khoảng 1%, tức chỉ có 5.000 doanh nghiệp.

Trong khi đó, xu hướng sử dụng các trang mạng xã hội vào công việc bán hàng ở nước ngòai lại rất được coi trọng và phổ thông. Tại hội thảo này, Phó giáo sư trường IAE Paris Marc Divine đã dẫn ra kết quả một cuộc khảo sát do ông thực hiện đối với 200 công ty quốc tế như IBM, L'Oreal, Unilever về sử dụng mạng xã hội trong hoạt động tiếp thị.

Theo đó, có tới 54% trong số các công ty quốc tế này từ lâu đã sử dụng mạng xã hội làm công cụ marketing. Điều thú vị là, trang mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất không phải là Facebook mà lại là LinkedIn. Sau vị trí thứ hai của Facebook, đứng thứ ba là trang Viadeo, rồi đến Youtube, Twitter và đứng thứ sáu là Dailymotion.

Nói về lợi ích tuyệt vời của công cụ mạng này, Phó giáo sư đúc rút, các giám đốc marketing ngoài việc sử dụng các mạng xã hội để quảng bá thương hiệu, tạo hiệu ứng lan truyền , tìm kiếm khách hàng tiềm năng, v.v..., còn để thu thập phản hồi của khách hàng và tạo nên sự gắn kết với đội ngũ nhân viên hiện thời và thu hút các nhân viên tiềm năng.

Hàng triệu lượt truy cập cho một clip ấn tượng

Trên thực tế, tại Việt Nam đã có một vài ví dụ khá ấn tượng khi quảng cáo qua mạng xã hội. Ông Hà Tuấn liệt kê ví dụ như clip quảng cáo của Vinamilk trên Youtube thu hút tới 10 triệu lượt người xem, chiến dịch Pond trắng hồng của mỹ phẩm Pond vừa qua do Mai Văn Hương làm chủ clip cũng thu hút gần 500.000 view trên Zing.me trong vài tuần làm tiếp thị lan truyền.

"Nếu biết sử dụng đúng cách mạng xã hội, hiệu quả kinh doanh sẽ rất lớn", ông Hà Tuấn nói. Bởi khảo sát từ phía tác động tới hành vi mua sắm của người tiêu dùng, nghiên cứu của Vinalink cho biết có đến 35% số người dùng Internet ở Việt Nam từng tham khảo thông tin trên các diễn đàn và 25,5% từng xem thông tin từ bạn bè, fanpage, quảng cáo trên các mạng xã hội trước khi mua hàng hay dịch vụ.

Ông Hà Tuấn cho rằng: "Nếu biết phân khúc để đánh đúng đối tượng mục tiêu, việc sử dụng mạng xã hội không chỉ là bán hàng hay dịch vụ mà còn là phương tiện làm thương hiệu để kết hợp với các kênh khác tiếp cận tới mục tiêu. Tuy nhiên, quảng cáo các sản phẩm dịch vụ nên xác định cho khu vực thành thị và những người có thói quen sử dụng mạng xã hội".

Tổng Giám đốc Digimarketin, chị Lê Thúy Hạnh, cho hay, đa số các doanh nghiệp có thói quen truyền tải cùng một thông điệp trên các mạng xã hội khác nhau thay vì phát triển các hình thức truyền đạt riêng cho mỗi trang này. Trong khi đó, mỗi trang đều có những đặc tính riêng. Cái được chấp nhận ở Tumblr có thể bị coi là spam trên Facebook. Phong cách viết có hiệu quả với Twitter có thể thất bại trên FriendFeed".

"Vì thế, để tối đa hóa tác dụng của mạng xã hội, các doanh nghiệp nên truyền tải những thông điệp khác nhau trên các phương tiện khác nhau. Ngoài ra, các doanh nghiệp nên giảm bớt các "tuyên bố chính thức" mà hướng sâu hơn vào các thông điệp mang tính cá nhân để tạo ra sự kết nối với khách hàng. ", bà Lê Thúy Hạnh lưu ý.

Theo Phạm Huyền
VEF

Doanh nghiệp Việt chưa sử dụng Facebook, Youtube nhiều


Có đến 35% người dùng Internet tại Việt Nam từng tham khảo thông tin từ Facebook, Youtube... trước khi sử dụng dịch vụ hay đi mua hàng. Nhưng chỉ 1% doanh nghiệp Việt Nam marketing qua những mạng xã hội này.

Theo nghiên cứu của Vinalink (một công ty chuyên về dịch vụ khảo sát, marketing trực tuyến), có đến 35% số người dùng Internet tại Việt Nam từng tham khảo thông tin trên forum và 25,5% từng xem thông tin từ bạn bè, fanpage, quảng cáo... trên các mạng xã hội trước khi mua hàng hay sử dụng dịch vụ.
Tuy nhiên, chỉ có 0,4% doanh nghiệp Việt Nam dùng Facebook (khoảng 2.000 doanh nghiệp) để quảng cáo; 0,07% dùng Youtube; và khoảng 0,2% còn lại dành cho các mạng xã hội khác. Có khoảng 5.000 doanh nghiệp sử dụng mạng xã hội bao gồm cả forum, blog (chiếm 1%).
35% số người dùng Internet tại Việt Nam từng tham khảo thông tin doanh nghiệp từ Facebook, Youtube...
35% số người dùng Internet tại Việt Nam từng tham khảo thông tin doanh nghiệp từ Facebook, Youtube...
Trong khi đó, xu hướng sử dụng mạng xã hội để tiếp thị, bán hàng ở nước ngoài rất phổ biến. Phó giáo sư Marc Divine (trường IEA Paris) người có nhiều năm nghiên cứu về mạng xã hội, đã tiến hành khảo sát với 200 công ty quốc tế như IBM, L’Oreal, Unilever. Kết quả cho thấy, hơn một nửa trong số các công ty này đã sử dụng mạng xã hội làm công cụ trong hoạt động tiếp thị. Còn tại Mỹ có 70,3% doanh nghiệp dùng Facebook để quảng cáo, 58% dùng Linkedin, 40% dùng Twitter và 26,8% dùng Youtube.
Trong khi rất ít doanh nghiệp Việt dùng mạng xã hội để quảng bá thì những đơn vị từng sử dụng đã thu được kết quả khá tốt. Các clip quảng cáo của Vinamilk trên Youtube đã thu hút hơn 10 triệu lượt xem trong khi chi phí bỏ ra bằng không.
Ông Hà Tuấn, Giám đốc Vinalink nhận xét, nếu biết sử dụng đúng cách mạng xã hội, hiệu quả kinh doanh sẽ rất lớn. Việt Nam có đến 15 triệu người sử dụng Internet, và con số này sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai. Thông qua mạng xã hội, doanh nghiệp sẽ dễ dàng truyền tải thông tin sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng mục tiêu (có thể phân khúc theo độ tuổi, giới tính, trình độ...). Hơn nữa chi phí cho công tác truyền thông này rất thấp, dễ dàng đo lường hiệu quả. Một lợi thế của kênh truyền thông này là doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu thập các thông tin phản hồi, dễ dàng tạo dựng nhóm khách hàng trung thành.
Khảo sát của Vinalink với các giám đốc marketing cho thấy, việc sử dụng mạng xã hội để quảng bá thương hiệu ngoài việc tạo được hiệu ứng lan truyền, tìm kiếm khách hàng... còn giúp gắn kết với đội ngũ nhân viên hiện thời và thu hút các ứng viên tiềm năng. Tuy nhiên, việc sử dụng mạng xã hội nhằm truyền thông cũng có những bất lợi nhất định. Facebook là mạng phổ biến nhất hiện nay, phù hợp tiếp thị truyền thông nhưng có đến 80% người dùng cho rằng khó truy cập.
Theo ông Ngô Thanh, Giám đốc Mancom (một công ty về marketing trực tuyến), nhiều chủ doanh nghiệp có lứa tuổi khá cao, hơn 50% là trên 45 tuổi. Lứa tuổi này không những khá lạc hậu về công nghệ thông tin mà còn khá bảo thủ với những trào lưu mới. Các chủ doanh nghiệp này nhìn nhận mạng xã hội giống như giới trẻ - những người chưa được họ đặt lòng tin một cách đúng mức.
Trong suy nghĩ của nhiều người, đặc biệt là người lớn tuổi, thông tin trên mạng không mang tính chính thống, thiếu sự tin cậy so với các phương tiện truyền thông khác, như tivi, đài báo. Đây là những lý do mà doanh nghiệp Việt chưa thực sự coi mạng xã hội như một công cụ truyền thông hiệu quả, nhưng cũng là thiếu sót lớn của họ trong quá trình xây dựng thương hiệu, ông Thanh nhận xét.
Trái lại, những chủ doanh nghiệp trẻ lại rất nhanh nhạy trong vấn đề này. Thời gian gần đây, sản phẩm cơm kẹp (một dạng fastfood kiểu Việt) VietMac là một ví dụ điển hình. CEO của VietMac là người thuộc thế hệ 8X đã xây dựng thị trường và thương hiệu rất nhanh, chỉ thông qua mạng xã hội.
Ông Thanh cho biết, hơn 80% khách hàng của họ biết đến VietMac thông qua Facebook và các diễn đàn. Chỉ sau ba tháng, họ đã có thể nhượng quyền cho chính những thành viên của diễn đàn mà vị CEO này tham gia.
Chị Lê Thúy Hạnh, Tổng giám đốc Digimarketing bình luận, đa số các doanh nghiệp có thói quen truyền tải cùng một thông điệp trên các mạng xã hội khác nhau thay vì phát triển các hình thức truyền đạt riêng cho mỗi trang này. Trong khi đó, mỗi trang đều có những đặc tính riêng. Cái được chấp nhận ở Tumblr có thể bị coi là spam trên Facebook. Phong cách viết có hiệu quả với Twitter có thể thất bại trên FriendFeed. Vì thế, theo chị Hạnh, để tối đa hóa tác dụng của mạng xã hội, các doanh nghiệp nên truyền tải những thông điệp khác nhau trên các phương tiện khác nhau.
Một lời khuyên nữa mà chị đưa ra đối với mạng xã hội, là các doanh nghiệp nên giảm bớt các "tuyên bố chính thức" mà hướng sâu hơn vào các thông điệp mang tính cá nhân để tạo ra sự kết nối với khách hàng.

Quy luật thời gian trong Marketing trên Internet

Quy luật thời gian trong Marketing trên Internet

Quy luật thời gian trong Marketing trên Internet Hãy làm những gì mình muốn. Nhưng hãy nhanh chân lên! Hãy là người đầu tiên và tập trung vào đúng trọng tâm.
Nếu muốn thành công trong kinh doanh, trong xây dựng nhãn hiệu hay trong cuộc sống, trước hết ta phải xâm nhập được vào tâm trí của đối tượng. Xin lưu ý, chúng tôi nói “Tâm trí” chứ không phải “thị trường”. Một chiến lược được nhiều công ty lớn áp dụng là tóm lấy ý tưởng của những công ty nhỏ hơn. Và với nguồn lực mạnh hơn, những công ty này thường thắng trong cuộc chiến “Chiếm lĩnh tâm trí khách hàng” và tạo ra nhận thức của khách hàng rằng họ là công ty đầu tiên về ngành này trên trị trường.
Nếu bạn là CEO (Tổng giám đốc điều hành) của một công ty nhỏ, hãy cẩn thận. Bạn cần di chuyển đặc biệt nhanh. Không nhanh là chết. Thuyết sinh tồn trên thương trường là: kẻ nào nhanh kẻ ấy sống sót!
Chiếm lĩnh vị trí đầu tiên trong tâm trí người tiêu dùng không có nghĩa là xâm nhập tâm trí sớm nhất. Đã có rất nhiều công ty tự hài lòng với việc “là một trong những nhãn hiệu đầu tiên” trong ngành hàng đó. Tuy nhiên việc này không đồng nhất với việc trở thành nhãn hiệu đầu tiên xâm nhập tâm trí khách hàng và tạo ra được khái niệm rằng nhãn hiệu của bạn là nhãn hiệu hàng đầu. Có mặt đầu tiên trên thị trường sẽ chẳng có ý nghĩa gì trừ phi bạn có thể có mặt đầu tiên trong tâm trí người tiêu dùng.
Có sự khác biệt lớn giữa việc nảy ra một ý nghĩ vẩn vơ vào một buổi chiều Chủ nhật và có một thương hiệu thành công trên Internet vào sáng Thứ hai. Những ý tưởng (và những suy nghĩ vẩn vơ là nguồn gốc của nó) kiểu đó thực ra cũng chẳng nghĩa lý gì nếu như không có lao động cật lực và quan trọng hơn là việc khẩn trương đưa ý tưởng đó lên Internet.
Không thể chần chừ. Ý chúng tôi là đừng có đợi qua hàng loạt các thử nghiệm, các nhóm làm việc tập trung và các cuộc điều tra thị trường. Đây là vấn đề đặc trưng đối với một nhãn hiệu trên Internet.
Một điển hình là Yahoo. Yahoo tận dụng phần mềm của các hãng khác để phục vụ công nghệ tìm kiếm của chính mình, trước tiên từ Open Source, sau đó từ Alta Vista trước khi định vị sau cùng tại Inktomi. Công cụ tìm kiếm hàng đầu không phát triển công nghệ tìm kiếm của riêng mình. Điều này có làm người ta ngạc nhiên không? Đừng ngạc nhiên. Bạn không thắng đối thủ vì hoàn hảo hơn họ. Bạn thắng chỉ vì bạn là người đầu tiên. Yahoo! thành công vì đã nhanh chóng đưa ý tưởng của họ lên mạng.
Ngày nay hãng Microsoft sẽ ở đâu nếu như Bil Gates không bỏ học ở trường Harvard ngay từ năm đầu tiên để đến Albuquerque, bang New Mexico, để phát triển một hệ điều hành cho máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới?
Khởi nghiệp ở vị trí thứ 2 đã đủ khó khăn. Tình hình còn tệ hơn nếu khởi nghiệp sau hàng loạt đối thủ. Trong rất nhiều trường hợp, việc khởi nghiệp này gần như vô vọng. Nếu tham gia vào một trò chơi muộn, bạn sẽ phải thu hẹp phạm vi hoạt động của mình.
Nhưng nếu chỉ tiến hành nhanh mà không có ý tưởng cơ bản tốt thì cũng chưa đủ:
Time Warner là một trong những công ty hàng đầu xây dựng trang web của mình trên Internet. Do đó, họ lấy tên là Pathfinder.  Nhưng Pathfinder là gì? Đây là một trang tập hợp thông tin từ nhiều tạp chí khác nhau của Time Warner như Time, People, Fortune, Money, Entertainment Weekly và những tạp chí khác. Sau khi đầu tư 75 triệu đô la như được công bố trên trang web, Time Warner gần đây đã đóng trang web lại. Vậy thực ra Pathfinder là gì? Nó chỉ là một ý nghĩa duy nhất là một trang web đăng các xuất bản phẩm của Time Warner.
Time Warner đã tự quảng cáo mình là “công ty truyền thông hàng đầu thế giới”. Vậy làm sao hai anh chàng sở hữu Yahoo! ở Stanford có thể đánh bại được công ty?
Rất đơn giản. Tất cả những gì cần có là một chiến lược đúng đắn và định thời điểm đúng. Cần phải có cả hai yếu tố trên để thành công trên Internet.
Có nhiều bài học của sự xuất hiện đúng thời điểm với chiến lược sai lầm. Điển hình như trong lĩnh vực việc làm - tuyển dụng: Website tuyendung.com là một trong những website về việc làm tuyển dụng ra đời sớm nhất tại Việt Nam (từ năm 2000). Cùng thời điểm với sự phát triển của các website về việc làm như Vietnamworks.com, kiemviec.com nhưng cho đến thời điểm hiện tại Website này hầu như không mang về lợi nhuận với khoản đầu tư tiêu tốn hàng triệu đô.  Nguyên nhân chính là vì không có chiến lược đúng, thiếu tập trung (Một website việc làm - tuyển dụng có cả rao bán tên miền, giới thiệu địa danh)
Thành công là có một chiến lược đúng, và sẽ càng thành công hơn nữa là chiến lược đó triển khai đúng thời điểm. Nhìn vào sự thành công của VINA Game với "Võ lâm truyền kỳ". Những điều góp phần tạo nên thành công của VINA Game tại thời điểm đó: 
  • Võ Lâm truyền kỳ là một game với cốt truyện kiếm hiệp đã được truyền bá ở Việt Nam nhiều năm.
  • Là game đã thành công ở Trung Quốc - Quốc gia có nền văn hóa rất gần với văn hóa Việt Nam. 
  • Hơn thế nữa thời điểm Võ Lâm truyền kỳ ra đời là lúc Game Online thịnh hành nhất tại thời điểm đó - MU - bị cộng đồng dân chơi Game  dần từ bỏ vì phải chơi lại từ đầu khi FPT chính thức mua bản quyền của game này tại Việt Nam. 
Môt chiến lược đúng đắn vẫn có thể thành công dù thời điểm không thuận lợi.  Vẫn là trong lĩnh vực việc làm - tuyển dụng, tuy ra đời sau nhiều năm so với website đàn anh như Vietnamworks, Kiemviec... (www.TìmViecNhanh ra đời 2007) nhưngwww.TimViecNhanh.com vẫn thành công vì đã chọn đúng chiến lược và hướng đi riêng cho mình. Xác định được phân khúc thị trường mục tiêu (Việc làm cấp trung, sơ, bán thời gian) và áp dụng hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin, E- Marketing nênwww.TimViecNhanh.com đã thành công và đứng số một trên phân khúc thị trường đã chọn trong lĩnh vực việc làm tuyển dụng. 
(Tham khảo nhiều nguồn)
Internet luôn luôn thay đổi với tốc độ tính từng giây nên những quy luật này có thể thay đổi trong tương lai.  Vui lòng ghi rõ ngày tháng năm và trích nguồnwww.interbrandmedia.com của bài viết này. (19/05/2009).

Tiếp thị số qua điện thoại di động




Hãng chuyên bán quảng cáo trên di động tại Mỹ Admob cho biết, nhu cầu quảng cáo trên di động tăng sáu lần mỗi tháng, với tổng khối lượng tăng từ 1,6 tỉ đô la lên 10,2 tỉ đô la trong vòng hai năm (9/2007 – 9/2009). Riêng tháng 9/2009, Admod nhận được hơn 10 triệu đơn đặt hàng quảng cáo. Con số trên cho thấy Mobile Marketing (tiếp thị trên di động) đã và đang mang lại nhiều lợi nhuận khổng lồ cho toàn thế giới.

Bỏ xa tiếp thị truyền thống


Trong những năm vừa qua nền kinh tế ngày càng suy thoái, ngành tiếp thị số (digital marketing) có những bước phát triển bứt phá, chiếm được nhiều ưu thế, Digital Marketing đã bỏ xa cách làm marketing truyền thống như TVC, Clip, POSM… Digital Marketing trong những năm gần đây đã có những 'cú hích' nhờ sự phát triển ngoạn mục của các mạng xã hội, các website, blog… Thế nhưng, gần đây do cơ sở hạ tầng internet được đầu tư mạnh, sự bùng nổ các website khiến người dùng internet đang bị bão hòa thông tin, dẫn đến sự xuất hiện của làn sóng marketing mới: Mobile marketing.


Ra đời tại Mỹ năm 2004, đến năm 2006 Mobile Marketing mới được các doanh nghiệp Việt Nam biết đến dưới hình thức triển khai căn bản nhất là gửi thông tin cho khách hàng.


Từ những chiến dịch sơ khai mà các ngân hàng áp dụng như thông báo thông tin về lãi suất tiền gửi, dịch vụ cho vay trả góp… hay việc gửi tin nhắn quảng cáo kèm theo các tin nhắn miễn phí được gửi từ website của các nhà cung cấp mạng thông tin di động như Viettel, Mobifone, Vinaphone…, đến nay thị trường Việt đã ghi nhận những hình thức Mobile Marketing đa dạng và phong phú như Telephone Marketing, SMS Marketing, Wap Apps, Mobile Marketing Location, Mobile Application Marketing, Bluetooth Marketing.


Tuy xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 2006, cho đến hiện tại Mobile Marketing tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở hình thức marketing đơn giản như SMS Marketing, Telephone Marketing, Wap Apps, tuy nhiên sự tương tác với người dùng thấp; Bluetooth Marketing và Mobile Marketing Location chưa có đất sống tại Việt Nam.


Hiện tại, hình thức Mobile Marketing được sử dụng nhiều nhất tại Việt Nam là SMS Marketing nhưng SMS Marketing đang gặp vấn nạn tin nhắn rác và sự không chuyên nghiệp của nhà cung cấp dịch vụ do đó SMS Marketing không lấy được lòng tin của người dùng. Do vậy, những hình thức sử dụng Mobile Marketing như Wapsite và Mobile Application Marketing đang được nhiều đơn vị đang triển khai. Công ty Naiscorp là đơn vị tiên phong khai phá, nghiên cứu và tư vấn tổng thể cho nhà quảng cáo đang được coi là hình thức mới và hiệu quả.

Một ngành khoa học thật sự



Hiện Naiscorp đang cung cấp các dịch vụ Mobile Application Marketing gồm: quảng cáo dạng Popup, hiển thị Popup trong các tin text, đặt banner trong dịch vụ nghe nhạc, quảng cáo marquee chữ chạy... Naiscorp cũng là đơn vị đầu tiên áp dụng hình thức Mobile Marketing mới như Click to Call, Click to SMS, Click to Download, Click to Wapsite, Click to Inside Article…


Với mô hình quảng cáo mới này các nhà quảng cáo sẽ truyền được thông điệp đến đúng khách hàng mục tiêu của mình và có thể kiểm soát được thông điệp ấy, với khách hàng nhận quảng cáo cũng có thể kiểm soát được ngân sách của họ. Ngoài ra, các hình thức quảng cáo trên có tính tương tác cao giữa người dùng và nhà quảng cáo; một thông điệp quảng cáo được đưa ra ngay lập tức nhà quảng cáo sẽ nhận được phản hồi của người dùng chỉ bằng nút bấm hoặc chạm nhẹ trên điện thoại.


Ông Nguyễn Xuân Tài - Tổng Giám đốc Công ty Naiscorp, cho biết: “Naiscorp quan niệm Mobile Marketing không phải gì khác mà chính là một khoa học, một ngành công nghệ cao về phân phối thông tin. Nếu thông tin được gửi đến người sử dụng mà họ không quan tâm, thì sẽ bị cho là “quảng cáo” hoặc “Spam-rác”. Công nghệ này chỉ có thể đạt được với lợi thế về xử lý ngôn ngữ (ở đây là tiếng Việt), phân tích ngữ cảnh người sử dụng một cách chi tiết và chính xác để biết nhu cầu, sở thích và thói quen của họ.”


Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết năm 2010 Việt Nam đã có trên 152 triệu thuê bao điện thoại di động, con số lớn gấp 1,7 lần dân số. Đây là mảng thị trường không thể bỏ qua của các nhà quảng cáo. Socbay iMedia cũng tiên phong cung cấp công cụ đo lường hiệu quả marketing giúp nhà quảng cáo tiết kiệm và kiểm soát chi phí, tính tương tác cao với người dùng, tập trung đúng đối tượng quảng cáo (giới tính, tuổi tác, vùng miền, thậm chí là dòng máy, trình duyệt và nhà mạng khách hàng đang sử dụng…). Loại hình marketing độc đáo lần đầu tiên được giới thiệu bởi Naiscorp trên cộng đồng hàng triệu người sử dụng Socbay iMedia đã được tin dùng bởi Nokia, Honda, Dentsu, v.v.


Trong những năm tới, ngành tiếp thị số (digital marketing) sẽ bùng nổ cùng với những ứng dụng của internet và mobile internet. Trong xu thế đó, Mobile Marketing hứa hẹn sẽ là “bảo kiếm” để khai phá thị trường Việt Nam đầy tiềm năng hàng trăm triệu USD mỗi năm này.

Những nhầm lẫn không đáng có về marketing


Theo các chuyên gia về tiếp thị, marketing là bất cứ sự liên hệ nào giữa doanh nghiệp và một đối tượng không phải là một phần của doanh nghiệp. Marketing là sự thật được làm cho trở nên lôi cuốn. Marketing là nghệ thuật thay đổi suy nghĩ của khách hàng. Ngoài ra, các chuyên gia tiếp thị cũng khuyên rằng doanh nghiệp nên tránh một số quan niệm sai lầm sau đây về hoạt động marketing. Chẳg hạn như: Marketing không phải là quảng cáo.
Những nhầm lẫn không đáng có về marketingĐừng nghĩ rằng khi doanh nghiệp đang quảng cáo tức là doanh nghiệp đang làm tiếp thị. Trên thực tế, có hơn 200 hình thức tiếp thị mà quảng cáo chỉ là một trong số đó.
Marketing không phải là thư trực tiếp.
Một số công ty nghĩ rằng mình có thể phát triển toàn bộ hoạt động kinh doanh chỉ bằng hình thức tiếp thị bằng thư trực tiếp.Trên thực tế, đa số các doanh nghiệp cần đến sự hỗ trợ của các vũ khí tiếp thị khác bên cạnh cách tiếp thị bằng thư trực tiếp.
Marketing không phải là tiếp thị từ xa.
Đối với hoạt động marketing giữa các doanh nghiệp, tiếp thị từ xa là một trong những vũ khí tiếp thị không đem lại thành công. Để tăng tỷ lệ phản hồi của khách hàng đốii với các hoạt động tiếp thị từ xa, doanh nghiệp phải lưu ý rằng tiếp thị từ xa cũng không thể làm nên toàn bộ hoạt động tiếp thị.
Marketing không phải là quảng cáo bằng brochure.
Nhiều công ty đua nhau làm brochure nhưng không để ý đến chất lượng của nó. Nghiên cứu cho thấy, bản thân brochure không thể đủ cho hoạt động tiếp thị nên thường được sử dụng kết hợp với các hình thức tiếp thị khác.
Marketing không phải là quảng cáo trên danh bạ điện thoại.
Nhiều công ty chỉ quảng cáo trên danh bạ điện thoại và cho rằng như thế là đủ cho hoạt động marketing. Trên thực tế, có 95% trường hợp quảng cáo trên danh bạ điện thoại không đem lại tác dụng gì
Marketing không phải là công nghệ biểu diễn.
Hãy nghĩ đến marketing như một hoạt động tạo ra động cơ, mong muốn cho khách hàng và khiến họ mua hàng chứ không phải là một công nghệ giải trí, bởi vì mục đích chính của marketing không phải là giải trí
Marketing không phải là một sân khấu hài.
Nếu lạm dụng yếu tố hài hước trong các hoạt động tiếp thị, khách hàng sẽ có khuynh hướng nhớ đến câu chuyện hài hước chứ không nhớ những gì mà doanh nghiệp đang chào bán.
Marketing không phức tạp.
Marketing sẽ trở nên phức tạp đối với những doanh nghiệp không nắm bắt được tính đơn giản của nó. Một doanh nghiệp làm tiếp thị khôn ngoan thường xây dựng một kế hoạch marketing ngắn gọn và cam kết thực hiện kế hoạch đó.
Marketing không phải là một website.
Nếu doanh nghiệp quảng cáo trên các website khi chưa hiểu biết về marketing thì có nguy cơ tốn tiền vô ích. Website chỉ là một phần của toàn bộ hoạt động tiếp thị.

eBrandium.com - Nguồn tin: DNSG

12 kinh nghiệm trong kinh doanh qua mạng


Chúng ta thường nói người biết nắm vững thời cơ là bậc hào kiệt, mà ngày nay ngành nghề "hot" nhất nào không liên quan đến các sản phẩm qua mạng Internet?
Phương pháp kiếm tiền thì trăm phương ngàn kế, ở đây người viết sẽ tổng kết một số điều nho nhỏ dựa trên kinh nghiệm của mình về bán hàng qua mạng:
1. Lượng thông tin mà các khách hàng tiềm năng của chúng ta có thể có được ngày càng nhiều, nhưng sức chú ý của họ lại có hạn, do đó chúng ta phải nghĩ biện pháp để cung cấp cho họ những thông tin miễn phí có ích cho cuộc sống và công việc của họ, tranh thủ được sự chú ý của họ, từ đó đạt được mục tiêu để họ mua hàng.
2. Thông qua thư điện tử, định kỳ gửi thư điện tử đến các khách hàng và người có tiềm năng mua hàng của chúng ta. Mục đích của việc làm này là khiến cho họ "định kỳ nghĩ đến chúng ta".
3. Nếu như ngành kinh doanh của chúng ta có tính chất toàn quốc hoặc quốc tế, thì việc thiết lập trang web là vô cùng cần thiết. Trên thực tế, mỗi trang web là một mặt bằng cửa hàng không đóng cửa của bạn, dưới tiền đề có đủ các kỹ năng bán hàng qua mạng, có thể giới thiệu sản phẩm và dịch vụ của chúng ta tới các đối tượng khách hàng tiềm năng 24/24 giờ.
Đợi đến khi các thương vụ điện tử qua mạng trở nên quen thuộc rồi, trang web sẽ có thể giải quyết việc kinh doanh 24/24 giờ. Đến lúc đó, chúng ta mới có thể thực sự thực hiện được "cho dù là trong khi ngủ, tiền giấy vẫn đua nhau chạy vào túi".
4. Luôn luôn để ý đến những động thái, cơ hội mới, luôn luôn tìm hiểu xem trong quá trình sản xuất hoặc phục vụ một mặt hàng nào đó - liệu có biện pháp nào nhanh hơn, tốt hơn, rẻ hơn không?
5. Cố hết sức giảm bớt các chi tiêu mang tính chất thường xuyên. Cho dù việc kinh doanh có tốt đến đâu, nhưng giá thành cao, lại thiếu vận hành, cuối cùng cũng sẽ đi đến bước đóng cửa phá sản.
6. Chúng ta cần có một đội ngũ cố vấn, trong tình thế cần thiết, đội ngũ này có thể giúp ta đưa ra sách lược.
Hình thức của đội ngũ này do tình hình thực tế của bạn để quyết định, chính thức hoặc không chính thức, từ 1-2 người đến các uỷ ban tư vấn có sự phân công rõ ràng, tóm lại là phải có một vài "quân sư" mới được.
Cũng giống như các cố vấn pháp luật, bác sĩ gia đình... có thể cung cấp sự bảo đảm chất lượng cho đời sống pháp luật, sức khoẻ... của chúng ta - các vị quân sư kinh doanh này cũng có thể trợ giúp cho việc kinh doanh của chúng ta thành công.
Bất luận thân phận của họ là gì: Giáo sư đại học, chuyên gia tư vấn, đối tác nghiệp vụ, bạn bè thân thiết..., chỉ cần có năng lực và chuyên môn về phương diện này là được.
7. Tham gia các lớp bồi dưỡng hoặc các buổi toạ đàm có liên quan, đọc các sách báo và tài liệu có liên quan, nhớ câu "cần không ngừng nạp điện". Những kiến thức và thông tin về phương diện thương mại, về kỹ xảo kinh doanh... là vô cùng quan trọng. Bởi vì trong thời đại kinh tế thị trường, không kinh doanh chỉ có con đường chết.


8. Phải tin vào bản thân mình. Điều này liên quan đến vấn đề rất khó là có thể đánh giá bản thân một cách chính xác hay không. Nói một cách đơn giản, nếu như chúng ta nghĩ mình có thể làm được, chúng ta sẽ có thể, chứ không phải là khi người khác nói "anh được đấy" thì bạn mới được. Đừng cười nhạo câu "con người có bao nhiêu sự liều lĩnh thì sẽ có bấy nhiêu sản nghiệp", tư tưởng cốt lõi của câu nói này là chính xác!
9. Nhất định phải tràn đầy niềm tin vào sự nghiệp của mình. Trong quá trình đi lại làm việc với đối tác kinh doanh, tinh thần hưng phấn, nhiệt tình, quên mình với công việc của bạn sẽ vô hình trung nảy sinh dần dần ảnh hưởng tích cực đối với họ.
10. Ai mà không muốn kinh doanh làm ăn với người mình thích và tin tưởng?Đây là một sự thực thường bị chúng ta xem nhẹ. Do đó, thiết lập uy tín là vô cùng quan trọng, bởi vì những việc lừa gạt, che giấu càng ngày càng không còn chỗ trên thị trường.
11. Sau khi đạt được một cuộc mua bán thành công, nhớ phải gửi một bức thư đến khách hàng của bạn thăm dò về thái độ vừa ý hoặc tán thưởng đối với sản phẩm hoặc sự phục vụ của bạn. Những tư liệu như vậy có thể trở thành những công cụ kinh doanh uy lực to lớn của chúng ta, cũng là biện pháp có tác dụng mạnh trong việc mở rộng uy tín của chúng ta.
12. Điểm mấu chốt luôn luôn phải kiên trì nhớ rõ là: Không bao giờ được dễ dàng từ bỏ! Vạn sự khởi đầu nan xây dựng sự nghiệp trên mạng cũng không phải ngoại lệ, khách hàng đầu tiên đến với bạn thường thường phải cần thời gian vài tháng.
Nếu như bạn có thể làm tốt, vận dụng đầy đủ những kinh nghiệm này thì việc làm tiếp theo của bạn chính là hưởng thụ danh tiếng, tài lộc và cảm giác thành tựu do việc kinh doanh khởi nghiệp thành công đem lại!

eBrandium.com - Nguồn tin: Vietnambranding

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Facebook Themes